Kazimiera Szczuka

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Kazimiera Szczuka
Kazimiera Szczuka, 2017
Sinh22 tháng 6, 1966 (57 tuổi)
Warsaw, Ba Lan
Quốc tịchBa Lan
Trường lớpĐại học Warsaw
Nghề nghiệpNhà sử học, nhà phê bình văn học, nhà báo

Kazimiera Szczuka (sinh ngày 22 tháng 6 năm 1966 tại Warsaw) là một nhà sử học, nhà phê bình văn học, nhà nữ quyền và nhân vật truyền hình người Ba Lan, nổi tiếng từ chương trình truyền hình đố vui The Weakest Link phiên bản Ba Lan.

Cuộc đời và sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Cha bà là ông Stanisław Szczuka, một luật sư và chính khách trong thời kỳ Cộng hòa Nhân dân Ba Lan,[1] và mẹ bà Janina là một bác sĩ xuất thân từ gia đình Ba Lan-Do Thái. Bà là chắt của kỳ thủ cờ vua Szymon Winawer. Szczuka lấy bằng Thạc sĩ tại Đại học Warsaw dưới sự hướng dẫn của học giả Maria Janion.[2]

Szczuka là thành viên của đảng chính trị Greens năm 2004, một người ủng hộ quyền lợi của cộng đồng LGBT và quyền lựa chọn của phụ nữ về khía cạnh nạo phá thai.[3] Bà là thành viên của Programme Council thuộc tổ chức chính trị Green Institute.[4]

Bà cũng là ban giám khảo của chương trình truyền hình Next Top Model và là chuyên gia của chương trình trò chơi Who Wants to Be a Millionaire? phiên bản Ba Lan. Vào tháng 9 năm 2022, Szczuka trở thành người dẫn chương trình nổi tiếng RMF FM Buổi nói chuyện buổi chiều (Popołudniowa rozmowa RMF FM) được phát sóng trên đài phát thanh RMF FM.[5]

Dư luận[sửa | sửa mã nguồn]

Szczuka đã từng phàn nàn rằng "Họ ghét tôi bởi vì tôi theo chủ nghĩa nữ quyền và là người Do Thái - nhưng chủ yếu là vì tôi theo chủ nghĩa nữ quyền" trong một cuộc phỏng vấn cho tạp chí The New York Times[6] và tờ International Herald Tribune.[7]

Tác phẩm chọn lọc[sửa | sửa mã nguồn]

  • Kopciuszek, Frankenstein i inne ("Cinderella, Frankenstein and Others"), Kraków, 2001
  • Milczenie owieczek. Rzecz o aborcji, Warsaw, 2004
  • Duża książka o aborcji (co-written with Katarzyna Bratkowska); Warsaw 2011
  • Janion. Transe – traumy – transgresje. 1: Niedobre dziecię (co-written with Maria Janion; Warsaw 2012
  • Janion. Transe – traumy – transgresje. 2: Profesor Misia (co-written with Maria Janion); Warsaw 2012

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Krzysztof Biernacki. “Stanisław Szczuka”. encyklopedia-solidarnosci.pl. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2019.
  2. ^ “Kobieta upadła, wydanie poprawione”. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2019.[liên kết hỏng]
  3. ^ “Interview with K. Szczuka (Polish)”. Wysokieobcasy.pl. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2012.
  4. ^ “Green Institute”. Zielonyinstytut.pl. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2012.
  5. ^ “Szczuka krytykowana po debiucie w RMF FM. "Może pan przestać mówić" (bằng tiếng Ba Lan). 6 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2022.
  6. ^ Bernstein, Richard (3 tháng 5 năm 2006). “Differing Treatment of Religious Slurs Raises an Old Issue - New York Times”. The New York Times. Poland; Europe. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2012.
  7. ^ “Search - Global Edition - The New York Times”. International Herald Tribune. 29 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2012.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]